Chính phủ Đế_quốc_Brasil

Nghị viện

Tham nghị viện Brasil, 1888. Các nghị sĩ bỏ phiếu về Đạo luật Hoàng kim

Điều 2 của Hiến pháp Brasil xác định vị thế của Hoàng đế và Assembleia Geral (Đại hội đồng hay Nghị viện), cơ cấu này vào năm 1824 gồm có 50 tham nghị viên (thượng nghị sĩ) và 102 chúng nghị viên (hạ nghị sĩ), là các đại biểu của quốc dân. Hiến pháp cung cấp vị thế và quyền lực cho Nghị viện, và lập ra các nhánh lập pháp, thẩm tra, hành pháp và tư pháp làm "các phái đoàn quốc dân" với quyền lực riêng biệt được dự tính là cân bằng nhằm hỗ trợ hiến pháp và các quyền lợi mà chúng nắm giữ.[122]

Cơ quan lập pháp được ban các đặc quyền và quyền lực trong Hiến pháp, đồng nghĩa là nó có thể và sẽ đóng vai trò lớn và không thể thiếu trong hoạt động của chính phủ—nó không chỉ là cỗ máy biểu quyết. Chỉ duy Đại hội đồng có thể ban hành, thu hồi, giải thích và đình chỉ các luật theo Điều 13 của Hiến pháp. Cơ quan lập pháp cũng giữ quyền lực ngân sách và được yêu cầu ủy quyền chi tiêu và thuế hàng năm. Chỉ cơ cấu này có thể phê chuẩn và thực thi giám sát các khoản vay và nợ của chính phủ. Các trách nhiệm khác được giao phó cho Đại hội đồng bao gồm quyết định quy mô của lực lượng quân sự, lập các chức vụ trong chính phủ, kiểm tra phúc lợi quốc gia và đảm bảo rằng chính phủ được điều hành phù hợp với Hiến pháp. Điều khoản cuối cùng này cho phép cơ quan lập pháp mở rộng thẩm quyền để thẩm tra và tranh luận chính sách và điều hành của chính phủ.[123]

Về vấn đề chính sách đối ngoại, Hiến pháp (theo Điều 102) yêu cầu rằng Đại hội đồng được tham vấn về tuyên chiến, các hiệp định và chỉ đạo quan hệ quốc tế. Một nhà lập pháp kiên quyết có thể tận dụng các điều khoản hiến pháp để ngăn chặn hoặc hạn chế các quyết định của chính phủ, tác động đến việc bổ nhiệm và buộc tái xét các chính sách.[124]

Trong các phiên họp kéo dài bốn tháng mỗi năm, Đại hội đồng tiến hành thảo luận công khai. Chúng được thông báo rộng rãi và hình thành một diễn đàn quốc gia để biểu lộ mối quan tâm của công chúng từ toàn bộ các địa phương trong nước. Nó thường xuyên là một nơi để biểu thị phản đối các chính sách và trình bày các bất bình. Các nhà lập pháp được miễn truy tố đối với các phát biểu trong phòng họp và thực thi nhiệm vụ của mình. Chỉ có phòng thẩm phán trong Đại hội đồng có thể ra lệnh bắt giữ một thành viên trong nhiệm kỳ của người đó. "Khi không phải chịu trách nhiệm thực khi thi hành công vụ thực tế, các nhà lập pháp được tự do đề xuất các cải cách bao quát, tán thành các giải pháp lý tưởng, tố cáo hành vi gây hại và cơ hội của chính phủ."[124]

Hoàng đế và hội đồng bộ trưởng

Các chính trị gia nổi bật và nhân vật quốc gia vây quanh Hoàng đế Pedro II, khoảng năm 1875

Hoàng đế đứng đầu nhánh thẩm tra và hành pháp (lần lượt được hỗ trợ từ Hội đồng Quốc gia và Hội đồng Bộ trưởng); ông có tiếng nói quyết định và quyền lực tối hậu đối với chính phủ quốc gia.[122] Ông có nhiệm vụ đảm bảo độc lập và ổn định của quốc gia. Hiến pháp (Điều 101) trao cho ông rất ít cách thức để áp đặt ý chí của bản thân lên Đại hội đồng, trong đó ông có quyền giải tán hoặc kéo dài các phiên họp của cơ quan lập pháp. Tại Tham nghị viện, hoàng đế có một quyền lực là bổ nhiệm các nghị viên song điều này không nhất thiết nâng cao ảnh hưởng của ông do các nghị viên giữ chức trọn đời và do đó thoát khỏi áp lực từ chính phủ một khi họ được phê chuẩn. Trong những lần Chúng nghị viện bị giải tán, các cuộc bầu cử mới được yêu cầu tổ chức lập tức và khóa nghị viên mới được bầu ra. "Quyền lực này hữu hiệu do bảo lưu một mối đe dọa. Nó không thể dùng được nhiều lần, cũng không thể được sử dụng để mang thuận lợi cho hoàng đế."[124]

Trong thời gian trị vì của Pedro I, Chúng nghị viện chưa từng bị giải tán và các phiên họp lập pháp chưa từng phải kéo dài hay bị hoãn.[125] Dưới thời Pedro II, Chúng nghị viện chỉ từng bị giải tán theo thỉnh cầu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). Tổng thể có 11 lần giải thể Chúng nghị viện trong thời Pedro II cai trị, trong số đó 10 lần là sau khi tham khảo với Hội đồng Quốc gia, là điều nằm ngoài yêu cầu của Hiến pháp.[126] Thế cân bằng quyền lực theo hiến pháp tồn tại giữa Đại hội đồng và nhánh hành pháp dưới quyền Hoàng đế. Cơ quan lập pháp không thể tự vận hành và quân chủ không thể áp đặt ý chí của mình cho Đại hội đồng. Hệ thống hoạt động trơn chu chỉ khi Đại hội đồng và Hoàng đế hành động trên tinh thần hợp tác vì lợi ích quốc gia.[124]

Có thêm một nhân tố mới khi chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" chính thức được lập ra vào năm 1847—song đã tồn tại trên thực tiễn từ năm 1843. Chủ tịch có địa vị trong đảng của mình và trước Hoàng đế, và chúng đôi khi có thể xung đột. Thủ lĩnh bãi nô và sử gia thế kỷ 19 Joaquim Nabuco nói rằng "Chủ tịch Hội đồng tại Brasil không phải như Thủ tướng Nga khi là thuộc hạ của quân chủ, cũng không như Thủ tướng Anh Quốc khi chỉ thực hiện theo ủy thác của Thứ dân viện: ủy nhiệm của quân chủ đối với ông cần thiết và quan trọng như ủy nhiệm của Nghị viện, và nhằm sử dụng an toàn chức trách của mình, ông đã kiềm chế tính thất thường, sự lưỡng lự và tham vọng của nghị viện, cũng như luôn duy trì bất biến sự ủng hộ, thiện ý của hoàng đế."[127]

Chính quyền cấp tỉnh và địa phương

Salvador là một thành phố lớn và là thủ phủ của tỉnh Bahia tại miền đông bắc, 1870
Rio de Janeiro là một đại đô thị và là thủ đô của đế quốc, 1889.

Hiến pháp năm 1824 tạo ra Conselho Geral de Província (Đại hội đồng cấp tỉnh), là cơ quan lập pháp của các tỉnh.[128] Hội đồng này gồm có 21 hoặc 13 thành viên được tuyển cử, tùy thuộc quy mô dân số các tỉnh.[129] Toàn bộ "nghị quyết" (luật) do các hội đồng này lập ra cần được Đại hội đồng quốc gia phê chuẩn, không có quyền thượng tố.[129] Các hội đồng cấp tỉnh cũng không có quyền tăng thu thuế, và ngân sách của họ do Đại hội đồng thảo luận và phê chuẩn.[129] Các tỉnh không có quyền tự trị và hoàn toàn phụ thuộc chính phủ quốc gia.[128]

Theo Đạo luật tu chính án năm 1834, các đại hội đồng cấp tỉnh bị thay thế bằng Assembleias Legislativas Provinciais (Hội đồng lập pháp cấp tỉnh). Các hội đồng mới này được hưởng quyền tự trị lớn hơn từ chính phủ quốc gia.[130] Một hội đồng lập pháp cấp tỉnh gồm có 36, 28 hoặc 20 đại biểu được tuyển cử, số lượng tùy theo quy mô dân số.[131] Bầu cử đại biểu cấp tỉnh theo thủ tục tương tự như bầu cử đại biểu Chúng nghị viện.[131]

Trách nhiệm của hội đồng lập pháp cấp tỉnh bao gồm xác định ngân sách cấp tỉnh và địa phương, đánh thuế cần thiết để hỗ trợ chúng; chu cấp cho các trường tiểu học và trung học (giáo dục bậc đại học là trách nhiệm của chính phủ quốc gia); kiểm tra và giám sát chi tiêu cấp tỉnh và địa phương; chu cấp cho việc thực thi pháp luật và duy trì lực lượng cảnh sát. Các hội đồng cũng kiểm soát việc thiết lập và bãi bỏ, cùng với lương cho các chức vụ công vụ cấp tỉnh và địa phương. Việc bổ nhiệm, đình chỉ và sa thải các công vụ viên dành riêng cho chủ tịch (thống đốc) của tỉnh, song cách thức và hoàn cảnh thi hành cần do hội đồng hoạch định. Việc trưng dụng tài sản cá nhân (đền bù bằng tiền) vì lợi ích của tỉnh và địa phương cũng là một quyền của hội đồng.[132] Trên thực tế, hội đồng cấp tỉnh có thể ban hành bất kỳ loại luật nào mà không cần Nghị viện phê chuẩn, chừng nào những luật địa phương này không vi phạm hoặc xâm phạm Hiến pháp. Tuy nhiên, các tỉnh không được phép lập pháp trên các lĩnh vực luật hình sự, luật tố tụng hình sự, các quyền dân sự và các nghĩa vụ, lực lượng vũ trang, ngân sách quốc gia và các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia như quan hệ đối ngoại.[133]

Chính phủ quốc gia bổ nhiệm các chủ tịch tỉnh, và theo lý thuyết họ chịu trách nhiệm cai quản tỉnh. Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực của họ là vô hình, khác biệt giữa các tỉnh dựa trên mức độ quan hệ của chủ tịch. Do chính phủ quốc gia muốn đảm bảo lòng trung thành của các chủ tịch tỉnh, trong hầu hết trường hợp những người này được phái đến một tỉnh mà họ không có các quan hệ chính trị, gia đình và các quan hệ khác.[134] Nhằm ngăn chặn họ phát triển bất kỳ lợi ích hay ủng hộ địa phương mạnh mẽ nào, các chủ tịch bị giới hạn nhiệm kỳ chỉ trong vài tháng.[134] Do các chủ tịch thường dành một lượng lớn thời gian bên ngoài tỉnh, thường đi đến tỉnh quê hương của họ hoặc đến thủ đô, thống đốc "thực tế" là phó chủ tịch, người này do hội đồng cấp tỉnh lựa chọn và thường là một chính trị gia địa phương.[135] Do quyền lực hạn chế không thể làm yếu đi quyền tự trị cấp tỉnh, chủ tịch là một đại lý của chính phủ trung ương với ít trách nhiệm ngoài việc truyền đạt các quan tâm của trung ương đến các đầu sỏ chính trị trong tỉnh. Các chủ tịch có thể được chính phủ quốc gia sử dụng để tác động đến các cuộc bầu cử hay thậm chí là gian lận, song tác động mà chủ tịch đạt được dựa vào các chính trị gia cấp tỉnh và địa phương thuộc cùng chính đảng với ông ta. Sự phụ thuộc lẫn nhau này tạo ra một mối quan hệ phức tạp, dựa trên trao đổi ân huệ, lợi ích cá nhân, mục tiêu của đảng, thương lượng và các vận động chính trị khác.[136]

Câmara municipal (hội đồng đô thị) là cơ cấu quản lý tại các thị trấn và thành phố, tồn tại từ khi bắt đầu thời kỳ thuộc địa trong thế kỷ 16. Cơ cấu bao gồm vereadores (nghị viên hội đồng), số lượng tùy theo quy mô đô thị.[137] Không như Đại hội đồng cấp tỉnh, Hiến pháp trao cho các hội đồng đô thị quyền tự trị lớn. Tuy nhiên, khi Hội đồng lập pháp cấp tỉnh thay thế Đại hội đồng cấp tỉnh vào năm 1834, nhiều quyền của các hội đồng đô thị (trong đó có định ngân sách đô thị, giám sát chi tiêu, tạo việc làm, và bổ nhiệm công vụ viên) được chuyển cho chính phủ cấp tỉnh. Thêm vào đó, bất kỳ luật nào do hội đồng đô thị ban hành cần phải được hội đồng cấp tỉnh phê chuẩn, thay vì Nghị viện.[138] Theo Tu chính án năm 1834, các tỉnh được trao quyền tự trị lớn hơn, các quyền tự trị còn lại của đô thị bị chuyển cho chính quyền cấp tỉnh.[139] Không có chức vụ thị trưởng, và hội đồng đô thị và chủ tịch của hội đồng tiến hành quản lý đô thị.[140]

Bầu cử

Những người da trắng và da đen tụ tập tại tỉnh Rio de Janeiro, khoảng năm 1888. Các cuộc bầu cử trong thế kỷ 19 tại Brasil rất dân chủ so với đương thời, song bị cản trở do gian lận

Cho đến năm 1881, đi bầu cử mang tính cưỡng chế[141] và các cuộc bầu cử diễn ra trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu các cử tri lựa chọn đại biểu cử tri, những người này sau đó chọn một danh sách các ứng cử viên tham nghị sĩ. Hoàng đế sẽ lựa chọn một tham nghị sĩ mới (thành viên Tham nghị viện, tức Thượng nghị viện) từ một danh sách gồm ba ứng cử viên nhận được số phiếu cao nhất. Các đại biểu cử tri cũng chọn ra các chúng nghị sĩ (thành viên Chúng nghị viện, tức hạ nghị viện), các đại biểu cấp tỉnh (thành viên hội đồng cấp tỉnh) và thành viên hội đồng đô thị mà không có sự can dự của Hoàng đế trong việc đưa ra lựa chọn cuối cùng.[142] Toàn bộ nam giới trên 25 tuổi có thu nhập hàng năm ít nhất là Rs 100$000 (hay 100.000 réis; tương đương vào năm 1824 với 98 USD[143]) đủ điều kiện bầu cử trong giai đoạn đầu. Tuổi bầu cử hạ xuống còn 21 đối với nam giới đã kết hôn. Để trở thành một đại biểu cử tri, cần phải có thu nhập hàng năm ít nhất là Rs 200$000.[142]

Hệ thống bầu cử Brasil tương đối dân chủ tại thời kỳ mà bầu cử gián tiếp là điều phổ biến tại các quốc gia dân chủ. Yêu cầu thu nhập tại Anh Quốc ở mức cao hơn nhiều, kể cả sau các cải cách năm 1832 tại đó.[144] Đương thời chỉ có Pháp và Thụy sĩ là không yêu cầu mức thu nhập tối thiểu làm điều kiện bỏ phiếu, song tại những nơi này quyền phổ thông đầu phiếu được thi hành chỉ từ năm 1848.[145][146] Có thể đã không có quốc gia châu Âu nào vào đương thời có pháp luật tự do như Brasil.[144] Yêu cầu thu nhập thấp đủ để bất kỳ nam công dân nào có việc làm đều đủ tư cách bầu cử.[143][146] Thí dụ, người làm công dân sự có mức lương thấp nhất vào năm 1876 là một người gác cổng với thu nhập Rs 600$000 mỗi năm.[144]

Hầu hết cử tri tại Brasil có thu nhập thấp.[147][148] Thí dụ, tại thị trấn Formiga của Minas Gerais vào năm 1876, người nghèo chiếm đến 70% toàn bộ cử tri. Tại Irajá thuộc tỉnh Rio de Janeiro, tỷ lệ người nghèo chiếm 87% toàn bộ cử tri.[149] Các cựu nô lệ không thể bầu cử, song con cháu họ có thể,[145] do có thể mù chữ [150] (là điều một vài quốc gia cho phép).[147] Năm 1872, 10,8% cư dân Brasil bỏ phiếu[148] (13% cư dân phi nô lệ).[151] Để so sánh, mức độ tham gia của cử tri tại Anh Quốc vào năm 1870 là 7% tổng dân số; tại Ý là 2%; tại Bồ Đào Nha là 9%; và tại Hà Lan là 2,5%.[145] Năm 1832, tức năm Anh Quốc cải cách bầu cử, 3% cư dân Anh Quốc đi bầu. Các cải cách tiếp theo vào năm 1867 và năm 1884 làm tăng tỷ lệ cử tri tham gia tại Anh Quốc lên 15% cư dân.[152]

Mặc dù gian lận bầu cử là điều phổ biến, song nó không bị Hoàng đế, các chính trị gia và nhà quan sát đương thời lờ đi. Vấn đề được nhận định là có quy mô lớn và họ tiến hành các nỗ lực để khắc phục sự lạm dụng,[142][150] với pháp chế (bao gồm các cải cách bầu cử năm 1855, 1875 và 1881) liên tiếp được ban hành để đấu tranh với gian lận.[153] Các cải cách vào năm 1881 dẫn đến thay đổi đáng kể: chúng loại bỏ hệ thống bầu cử hai giai đoạn, thi hành bầu cử trực tiếp và không cưỡng chế,[154] và cho phép các cựu nô lệ bỏ phiếu và ban quyền bầu cử cho những người phi Công giáo.[148] Ngược lại, các công dân mù chữ không còn được phép bỏ phiếu.[148] Tỷ lệ tham gia bầu cử giảm từ 13% xuống chỉ còn 0,8% vào năm 1886.[148] Năm 1889, khoảng 15% dân số Brasil có thể đọc và viết, do đó tước quyền bầu cử của người mù chữ không phải là cách giải thích duy nhất cho việc tỷ lệ bỏ phiếu giảm đột ngột.[155] Việc ngừng cưỡng bách bỏ phiếu và cử tri thờ ơ có thể là các yếu tố đáng kể góp phần giảm số lượng người đi bầu.[156]

Lực lượng vũ trang

Chiến hạm bọc thép Riachuelo của Brasil, 1885

Theo Điều 102 và 148 trong Hiến pháp, Lực lượng vũ trang Brasil phụ thuộc Hoàng đế do ông giữ chức vụ tổng tư lệnh.[157] Giúp đỡ cho Hoàng đế là các bộ trưởng chiến tranh và hải quân trong các sự vụ liên quan đến lục quân và hải quân- mặc dù Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trên thực tế thường xuyên tiến hành giám sát hai nhánh này. Các bộ trưởng chiến tranh và hải quân hầu hết là quan chức dân sự, chỉ có vài ngoại lệ.[158][159]

Quân đội được tổ chức theo quy tắc tương tự như lực lượng vũ trang Anh Quốc và Hoa Kỳ vào đương thời, theo đó một lục quân thường trực quy mô nhỏ có thể nhanh chóng tăng sức mạnh trong tình trạng khẩn cấp từ một lực lượng dân quân dự bị (tại Brasil là Vệ binh quốc gia). Phòng tuyến đầu của Brasil dựa trên một lực lượng hải quân lớn và hùng mạnh để bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của ngoại quốc. Do là một vấn đề chính sách, quân đội hoàn toàn tuân lệnh chính phủ dân sự và duy trì độc lập khỏi tham dự các quyết định chính trị.[160]

Quân nhân được phép tranh cử và phục vụ các chức vụ chính trị trong khi tại ngũ. Tu nhiên, họ không đại diện cho lục quân hay hải quân, mà được dự kiến phục vụ cho lợi ích của thành phố hoặc tỉnh mà họ được bầu.[158] Pedro I lựa chọn chín sĩ quan quân đội làm tham nghị viên và bổ nhiệm năm (trong số 14) người vào Hội đồng Quốc gia. Trong thời kỳ Nhiếp chính, hai người được bổ nhiệm vào Tham nghị viện và không có ai được vào Hội đồng Quốc gia (cơ cấu này không hoạt động trong thời kỳ Nhiếp chính). Pedro II lựa chọn bốn sĩ quan làm tham nghị viên trong thập niên 1840, hai người trong thập niên 1850 và ba người khác trong thời gian cầm quyền còn lại. Ông cũng bổ nhiệm bảy sĩ quan làm ủy viên Hội đồng Quốc gia trong thập niên 1840 và 1850, và ba người khác trong thời gian sau đó.[161]

Lực lượng vũ trang Brasil được thành lập sau khi quốc gia độc lập, ban đầu gồm các binh sĩ sinh tại Brasil và Bồ Đào Nha duy trì lòng trung thành với chính phủ tại Rio de Janeiro trong chiến tranh ly khai Bồ Đào Nha. Lực lượng vũ trang mang tính cốt yếu đối với kết quả thắng lợi trong các xung đột quốc tế mà Đế quốc đối diện, bắt đầu bằng Chiến tranh Độc lập (1822–1824), sau đó là Chiến tranh Cisplatina (1825–1828), rồi Chiến tranh Chiến tranh Pltata (1851–1852), Chiến tranh Uruguay (1864–1865) và cuối cùng là Chiến tranh Paraguay (1864–1870). Họ cũng đóng góp công sức giúp đàn áp các cuộc nổi loạn, mà khởi đầu là Liên bang Xích đạo (1824) thời Pedro I, tiếp đến là các cuộc nổi dậy thời kỳ đầu Pedro II, như Chiến tranh Ragamuffin (1835–1845), Cabanagem (1835–1840), Balaiada (1838–1841).[162]

Hải quân liên tục được hiện đại hóa bằng các phát kiến tối tân trong hải chiến. Lực lượng này tiếp nhận tàu hơi nước trong thập niên 1830, tàu chiến bọc thép trong thập niên 1860, và ngư lôi trong thập niên 1880. Đến năm 1889, Brasil có lực lượng hải quân hùng mạnh thứ năm hoặc thứ sáu trên thế giới[163] và các thiết giáp hạm mạnh nhất tại Tây bán cầu.[164] Lục quân dù có các quân đoàn giàu kinh nghiệm và thiện chiến, song thời bình tệ hại do được trả lương thấp, trang bị không đầy đủ, đào tạo kém và phải trải rộng khắp một lãnh thổ rộng lớn.[165]

Bất đồng do chính phủ quan tâm không thích đáng đến các nhu cầu của lục quân bị kiềm chế dưới quyền thế hệ sĩ quan bắt đầu sự nghiệp trong thập niên 1820. Các sĩ quan này trung thành với chế độ quân chủ, tin tưởng quân đội cần nằm dưới quyền kiểm soát dân sự, và ghê tởm chủ nghĩa caudillo (nền độc tài tại các quốc gia châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha) vốn tương phản với điều mà họ đấu tranh. Tuy nhiên, đến thập niên 1880, thế hệ này đã từ trần, nghỉ hưu hoặc không còn tiến hành chỉ huy trực tiếp.[98][166]

Bất mãn bắt đầu trở nên rõ rệt hơn trong thập niên 1880, và một số sĩ quan biểu thị bất phục tùng công khai. Hoàng đế và các chính trị gia không làm gì để cải tiến quân đội hay đáp ứng yêu cầu của họ.[167] Sự phổ biến của tư tưởng thực chứng trong giới sĩ quan trẻ tuổi càng làm phức tạp thêm, do những người thực chứng phản đối chế độ quân chủ dựa trên niềm tin rằng một chế độ cộng hòa độc tài sẽ mang lại các tiến bộ.[99] Một liên minh gồm phái lục quân nổi loạn và phái thực chứng hình thành và trực tiếp lãnh đạo cuộc đảo chính cộng hòa vào ngày 15 tháng 11 năm 1889.[168] Một số tiểu đoàn và thậm chí là nhiều trung đoàn và binh sĩ trung thành với Đế quốc, họ có chung tư tưởng với thế hệ thủ lĩnh cũ và nỗ lực nhằm khôi phục chế độ quân chủ. Các nỗ lực phục vị tỏ ra vô ích và những người ủng hộ đế quốc bị hành quyết, câu lưu hoặc buộc phải nghỉ hưu.[169]

Quan hệ đối ngoại

Sau khi độc lập từ Bồ Đào Nha, chính sách đối ngoại của Brasil có trọng tâm trước mắt là giành được công nhận quốc tế phổ biến. Quốc gia đầu tiên công nhận chủ quyền của Brasil là Hoa Kỳ, vào tháng 5 năm 1825.[170] Các quốc gia khác tiếp bước thiết lập quan hệ ngoại giao với Brasil trong vài năm sau.[171] Bồ Đào Nha công nhận hành động ly khai vào tháng 8 năm 1825.[172] Chính phủ Brasil sau đó đặt ưu tiên vào thiết lập biên giới quốc tế thông qua các hiệp định với láng giềng. Nhiệm vụ bảo vệ biên giới được công nhận là điều phức tạp do thực tế là từ năm 1777 đến năm 1801, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã bãi bỏ các hiệp định trước đó của họ về xác định biên giới giữa các thuộc địa của họ tại châu Mỹ.[173] Tuy nhiên, Đế quốc có thể ký một số hiệp định song phương với lân bang, gồm có Uruguay (năm 1851), Peru (năm 1851 và 1874), Cộng hòa Tân Granada (sau là Colombia, năm 1853), Venezuela (năm 1859), Bolivia (năm 1867) và Paraguay (năm 1872).[174][175] Đến năm 1889, hầu hết biên giới của Brasil được xác định vững chắc. Các vấn đề còn lại, gồm mua khu vực Acre từ Bolivia để tạo ra hình hài hiện tại của Brasil[176]—chỉ được giải quyết dứt khoát sau khi quốc gia trở thành một nước cộng hòa.[177]

Một số xung đột phát sinh giữa Brasil và lân bang. Đế quốc này không trải qua xung đột nghiêm trọng với các láng giềng ở phía bắc và phía tây, do có vùng đệm là rừng mưa Amazon gần như bất khả xâm phạm và cư dân thưa thớt. Tuy nhiên, tại phía nam các tranh chấp thuộc địa kế tục từ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha về quyền kiểm soát các sông có thể thông hành và các đồng bằng hình thành biên giới tiếp tục sau khi độc lập.[178] Thiếu vắng biên giới được đồng thuận tại khu vực này dẫn đến một số xung đột quốc tế, từ Chiến tranh Cisplatina đến Chiến tranh Paraguay.[179]

Công sứ Hoa Kỳ tại Brasil là James Watson Webb từng khẳng định rằng Brasil là một đại cường quốc tại lục địa châu Mỹ cùng với Hoa Kỳ.[180] Sự phát triển của Đế quốc này được Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John C. Calhoun nhận biết ngay từ năm 1844: "Bên cạnh Hoa Kỳ, Brasil là nơi thịnh vượng nhất, vĩ đại nhất và được chế định vững chắc nhất trong toàn bộ các cường quốc châu Mỹ."[181] Đến đầu thập niên 1870,[79] danh tiếng quốc tế của Đế quốc Brasil được cải thiện đáng kể, và duy trì được quốc tế xem trọng cho đến khi bản thân sụp đổ vào năm 1889.[101] Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tên là Christopher Columbus Andrews từng sống tại thủ đô của Brasil trong thập niên 1880, sau này gọi Brasil là một "đế quốc quan trọng" trong hồi ký của mình.[182] Năm 1871, Brasil được mời phân xử tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc trong tranh chấp mang tên "Yêu sách Alabama". Năm 1880, Đế quốc đóng vai trò phân xử giữa Hoa Kỳ và Pháp về tổn thất của kiều dân Hoa Kỳ khi Pháp can thiệp tại Mexico. Năm 1884, Brasil được kêu gọi phân xử giữa Chile và một số quốc gia khác (Pháp, Ý, Anh Quốc, Đức, Bỉ, Áo-Hung và Thụy Sĩ) về tổn thất phát sinh từ Chiến tranh Thái Bình Dương.[183]

Chính phủ Brasil sau cùng cảm thấy đủ tự tin để đàm phán một thỏa thuận mậu dịch với Hoa Kỳ vào năm 1889, thỏa thuận đầu tiên được tiến hành với bất kỳ quốc gia nào kể từ hiệp định mậu dịch tai hại và chịu bóc lột với Anh Quốc vào năm 1826 (bãi bỏ năm 1844). Sử gia Hoa Kỳ Steven C. Topik phát biểu rằng Pedro II "tìm kiếm một hiệp định mậu dịch với Hoa Kỳ nằm trong một chiến lược lớn hơn nhằm gia tăng chủ quyền và quyền tự chủ quốc gia." Không như trường hợp hiệp ước trước, Đế quốc ở vào thế vững chắc để nhấn mạnh về điều kiện mậu dịch thuận lợi, do đàm phán diễn ra trong thời gian Brasil có phồn vinh nội bộ và uy tín quốc tế.[184]